Admin

Cẩm nang du lịch - 22/03/2019 - 574 Lượt xem

Cẩm nang du lịch Bình Thuận

BÌNH THUẬN

Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ Việt Nam, với bờ biển dài 192 km từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná (Ninh Thuận) đến bãi bồi Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu). Phía bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía tây bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía tây nam giáp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tỉnh lỵ của Bình Thuận là thành phố Phan Thiết, cách Thành phố Hồ Chí Minh 183 km.

Bình Thuận có khí hậu nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nắng ấm, không khí trong lành, mát mẻ, nhiệt độ ôn hoà (trung bình 270C), lượng mưa thấp và tập trung đã tạo môi trường thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động du lịch quanh năm. Bình Thuận còn có hệ sinh thái động thực vật phong phú về chủng loại có giá trị cao phục vụ du khách tham quan, nghiên cứu. Nhiều mỏ nước khoáng có lưu lượng khá lớn, độ nóng cao, có tiềm năng phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng, chữa bệnh… như: Suối nước khoáng Vĩnh Hảo (Tuy Phong), Suối nước nóng Bưng Thị tại chân núi Tà Cú (Hàm Thuận Nam), Suối khoáng nóng Phong Điền (Hàm Thuận Nam), Suối nước khoáng Đakai (Đức Linh).

Trong các tài nguyên về du lịch, tài nguyên về du lịch biển là nổi bậc hơn cả. Với 192 km chiều dài bờ biển, ven biển còn có nhiều đảo, cù lao, vũng, vịnh; bãi biển có cảnh quan đẹp, môi trường hoang dã với những bãi cát trắng, nước trong xanh, tạo nên nhiều điểm du ngoạn nổi tiếng như: Cà Ná, Cù Lao Câu, Bình Thạnh, Gành Son (Tuy Phong), Bàu Trắng (Bắc Bình), bãi biển Đồi Dương – Thương Chánh, Rạng, Mũi Né – Hòn Rơm (Tp. Phan Thiết), Mũi Điện – Khe Gà, Thuận Quý (Hàm Thuận Nam), Đồi Dương, Hòn Bà, Ngảnh Tam Tân, Cam Bình (LaGi) … trong đó có một số cảnh quan thu hút nhiều du khách như: Đồi Cát Bay (Mũi Né, Hoà Thắng), Hòn Rơm (Mũi Né), Suối Tiên (Hàm Tiến), Bãi đá màu – Bình Thạnh (Tuy Phong); cùng các tài nguyên về du lịch nhân văn như: Đá Ông Địa, Lầu Ông Hoàng, quần thể Tháp Chăm Pô Sah Inư, trường Dục Thanh (Phan Thiết), Chùa Cổ Thạch (Tuy Phong), chùa Núi Tà Cú; các lễ hội dân gian như: lễ hội Cầu Ngư, lễ hội Nghinh Ông, lễ hội Trung thu, lễ hội  Dinh Thầy Thím, lễ hội KaTê, Ramưwan (đồng bào Chăm)… tất cả những tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn trên cùng với điều kiện khí hậu thuận lợi đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động du lịch phong phú, đa dạng và quanh năm.

Cùng với việc đầu tư xây dựng hạ tầng phát triển các tuyến, điểm tham quan du lịch trên địa bàn, tỉnh cũng triển khai việc trùng tu, tôn tạo các di tích văn hoá – lịch sử và nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá, lễ hội truyền thống để thu hút và lưu giữ du khách.

 Với truyền thống hiếu khách, chúng tôi mong được tiếp đón du khách trong và ngoài nước đến Bình Thuận như những người thân trong đại gia đình. Hy vọng Bình Thuận mãi là điểm đến du lịch an toàn, thân thiện và thương hiệu Du lịch Bình Thuận luôn là sự lựa chọn hàng đầu của du khách trong và ngoài nước

Các điểm tham quan hấp dẫn ở Bình Thuận

1.      Chùa Linh Quang – Ngôi chùa cổ nhất giữa biển khơi

Chùa Linh Quang còn gọi là Linh Quang Tự tọa lạc trên một ngọn đồi ở thôn Mỹ Khê, xã Tam Thanh Huyện Đảo Phú Quý. Linh Quang Tự được xây dựng vào năm 1747 đến nay chùa đã có niên đại 265 năm, là một trong những ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Bình Thuận. Tương truyền, chùa Linh Quang do Thiền sư Nguyễn Cánh khai sáng.

Bãi Cát Bình Thuận

Ban đầu Chùa Linh Quang chỉ là một thảo am do ông Nguyễn Cánh dựng lên để làm nơi tu hành, đồng thời cũng là nơi nương tựa tâm linh giữa biển khơi mênh mông của người dân xứ Đảo. Theo Thiền phả Chùa Linh Quang còn lưu giữ lại cho biết trước khi mất ông Nguyễn Cánh đã giao lại cho con là Nguyễn Khách ngôi thảo am này với một số pháp khí: 3 bộ kinh, 12 pho tượng Quan Thế Âm bằng đồng, 1 pho tượng Địa Tạng bằng gỗ, 1 chuông đồng, 19 đĩa sứ, 10 chén sứ và 6 cổ bòng bằng sứ.

Qua nhiều thế hệ nhà sư trụ trì với nhiều lần tu bổ, tôn tạo, ngôi chùa được biến đổi dần cả về diện tích của các công trình kiến trúc và trang trí nghệ thuật để phù hợp với quá trình phát triển của đảo cùng với sự gia tăng dân cư. Ðến cuối thế kỷ XVIII do sơ suất chùa bị cháy và gần như toàn bộ di sản trong chùa bị tiêu huỷ, chỉ còn lại hàng chục pho tượng cổ bằng đồng, đất nung.

Sau khi ngôi chùa bị cháy, nhân dân trên đảo Phú Quý tỏ lòng thành kính và đã bỏ công sức, của cải xây dựng lại chùa. Đang trong quá trình xây dựng, bất ngờ tại hòn Tranh, một hòn đảo nhỏ cách đảo Phú Quý chừng 2 hải lí về phía đông nam, bỗng xuất hiện một Linh thạch (tảng đá thần) cứ vào ngày lành tháng tốt lại nổi lên, sau đó lại biến mất. Ngư dân trên đảo phát hiện và cho rằng đó là “tảng đá thần”. Các ngư dân đã bơi thuyền sang hòn Tranh lấy đá thần về xây chùa, tạc tượng để tôn thờ. Từ đó sự tích phật “Thiên Sanh” hình thành tại chùa, cao 121cm, nặng 300kg được đặt trước tượng Phật tổ, tượng được tồn tại và lưu truyền trên đảo cho đến hôm nay.

Qua nhiều lần trùng tu, lần cuối cùng vào năm 1992, chùa được tạo thành một quần thể kiến trúc thẩm mỹ, vừa duy trì đường nét cổ kính, vừa mang tính hiện đại. Chùa được xây dựng quay về hướng Tây, bố trí theo dạng chữ Đinh gồm tòa Chánh điện, cổng Tam Quan, nhà Hội quán và nhà Tăng .

Linh Quang Tự là một công trình văn hóa lâu đời có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần của nhân dân huyện đảo. Ở đây danh lam với thắng cảnh là một, vườn chùa cùng với chùa đóng vai trò quan trọng đưa kiến trúc Phật giáo hòa nhập với thiên nhiên tạo cho ngôi chùa cổ nét gần gũi, thân quen mà không biệt lập. Giữa biển khơi nhìn về đảo, ngôi chùa nổi lên như một toà lâu đài cổ kính. Mùa Lễ hội là vào dịp rằm tháng 4 âm lịch (Lễ Phật đản). Tết thanh minh và rằm tháng 7 âm lịch (Lễ Vu lan), đây là dịp cảnh chùa tưng bừng nhộn nhịp, chăng đèn kết hoa đón tiếp mọi người dân trên Đảo và các nơi ở đất liền đến chiêm vái phật. Chùa được công nhận là thắng cảnh quốc gia theo quyết định số 51/QÐ-BT ngày 12 tháng 01 năm 1996.

Chùa hiện còn lưu giữ rất nhiều cổ vật, ngoài một số pho tượng đồng, gỗ, đá chùa có một Đại Hồng Chung có chu vi 101cm, cao 79cm do Hòa Thượng Quảng Thành tạo với 5 Đạo Sắc do các Vua triều Nguyễn: Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định sắc phong. Trong chùa còn có một chiếc trống da, có tên là trống Bát Nhã. Thân trống là một khúc gỗ sao tròn liền thân, đường kính rộng gần 1m mà không ghép.

  • Đồi cát bay

Đồi Cát bay – Mũi Né nằm ở khu du lịch Mũi né Hòn Rơm cách thành phố Phan Thiết chừng 20 km. Đồi cát được hình thành từ rất lâu đời, trải dài trên một diện rộng có tổng diện tích gần 50 ha. Cát ở đây có rất nhiều màu nhưng chủ yếu là các màu: vàng, trắng ngà, đỏ sậm, đỏ nhạt…trộn lẫn vào nhau trông rất đẹp mắt.

ngọn hải đăng

Đồi Cát bay – Mũi Né được ví von như một “hoang mạc” thơ mộng có một không hai của nước ta mà Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã ghi nhận. Tên gọi Đồi Cát bay được bắt nguồn từ việc đồi cát có màu sắc chính là vàng, là mỏ sắt cổ tồn tại hàng trăm năm kiến tạo nên, gọi là đồi cát bay vì hình dáng của Đồi Cát thay đổi theo giờ, theo ngày, theo tháng và không có hình dáng nhất định. Việc tạo nên hình dáng trăm hình, trăm dáng của cát là do gió bào mòn và thổi bay lớp cát mỏng manh phía trên, tạo nên những hình thái địa lý vô cùng hấp dẫn, thu hút những du khách thích khám phá thiên nhiên.

 Đồi cát như một bức tranh thiên nhiên sống động với những gam màu hòa quyện mang một vẻ đẹp rất riêng. Trong một ngày, đồi cát có thể biến dạng thành nhiều hình thù kỳ lạ. Hình ảnh ngay vào thời khắc này có thể sẽ không lặp lại vào ngày hôm sau. Mỗi đợt gió lớn đi qua hoặc sau những cơn mưa trên mặt cát hiện lên những đường vân lượn sóng tuyệt đẹp với nhiều hình dáng và màu sắc khác lạ.

Từ trên đồi cát du khách có thể phóng tầm mắt nhìn thấy toàn cảnh Mũi Né được bao phủ bởi một màu xanh mênh mông của biển xanh xen lẫn sắc vàng của cát dưới ánh mặt trời đỏ rực tạo nên một phong cảnh hữu tình và thơ mộng làm cho du khách có cảm giác như bay bổng giữa thiên nhiên. Du khách đến nơi đây, vượt qua hoang mạc không phải bằng Lạc Đà của xứ sở Ba Tư mà chính bằng những tấm trượt đơn xơ nhưng vô cùng thích thú. Đó là trò chơi trên cát phổ biến nhất ở nơi đây “trượt cát bằng ván”, du khách dùng một tấm ván carton do chính những em nhỏ người địa phương cho thuê một tấm với giá chỉ khoảng 20.000 đồng. Khách có thể trượt trên những đồi cát cao xuống bên dưới. Độ dốc của cát càng cao, trượt ván càng thú vị. Từ trên đồi chúng ta buông mình tự do trên tấm trượt đang lướt nhanh như bay giữa không trung trong các câu chuyện thần thoại.

  • Hải đăng Kê Gà

Nơi đón bình minh sớm nhất trên đất Việt Nam là mũi Kê Gà, tức mũi Điện.

Hải Đăng Khe Gà được xây dựng trên đỉnh đảo Khe Gà, đảo có diện tích 5ha. Ngọn tháp hải đăng có hình bát giác, xây trên đỉnh cao nhất của đảo ở xã Thuận Quý, thuộc huyện Hàm Thuận Nam, cách thành phố Phan Thiết 30 km về hướng Tây Nam. Hải đăng Kê Gà là ngọn hải đăng cao nhất và cổ xưa nhất Việt Nam.

Theo lịch sử hàng hải ở khu vực Mũi Kê Gà được coi là một vị trí cực kỳ hiểm yếu của vùng biển từ Phan Rang đi Vũng Tàu. Ngay từ các thế kỷ trước đã có rất nhiều thuyền buôn qua lại nơi đây và bị đắm do không xác định được tọa độ, vị trí. Để đáp ứng nhu cầu vận tải của quân đội Pháp cũng như tàu buôn của nước ngoài qua đây, người Pháp đã nghiên cứu và cho xây dựng ngọn hải đăng Kê Gà. Có nhiều giải thích về tên gọi Kê Gà hay còn gọi là Khe Gà. Cách giải thích phổ biến nhất là vì mũi đất này có khe giống đầu mỏ của một con gà. Một cách giải thích khác cho rằng ngày xưa ở đây có nhiều gà rừng sinh sống. Thời Pháp thuộc, khi vẽ bản đồ hành chính người ta ghi là Kéga, theo cách phát âm của người Pháp, về sau quen gọi là Kê Gà.

Được xây dựng vào tháng 2/1897 do kiến trúc sư người Pháp Snavat thiết kế, tháp đèn xây bằng đá cao 35 m, độ cao toàn bộ từ tầm ngọn đèn đến mặt biển là 65 m, kích thước cạnh của tháp rộng 3 m, đỉnh rộng 2,5 m, chiều dày tường tháp từ chân tháp đến độ cao 6 m là 1,6 m, càng lên cao độ dày càng giảm từ 1,5 m và mỏng nhất ở đỉnh tháp là 1 m. Có một tấm đá hoa cương lớn đặt ngay trước cửa vào Hải đăng khắc năm 1899. Tấm đá hoa cương này chưa biết người Pháp đưa từ đâu đến vì trong khu vực không có loại đá này. Không phải chỉ là những viên đá bình thường có 4 góc mà tất cả những khối đá hoa cương dùng xây Hải đăng đều đã được chạm, khắc thành từng ô, từng hình chữ nhật phẳng. Nghĩa là gần như có sẵn một ngọn tháp bằng đá đã được làm sẵn, khi xây dựng chỉ cần lắp đặt vào đúng thứ tự, góc cạnh từ dưới lên trên và không cần sử dụng vữa kết dính lại, các phiến đá khít khao, bền vững, không cần phải trét sửa chữa. Trên ngọn tháp có bóng đèn lớn 2.000W, có bán kính quét sáng là 22 hải lý, tương đương 40 km, dùng làm tín hiệu hướng dẫn tàu bè qua lại.

Được hoàn thành và đưa vào hoạt động năm 1900. Như vậy tính đến nay ngọn hải đăng này đã 112 tuổi, được xem là ngọn hải đăng xưa nhất Việt Nam.

Bên trong hải đăng có 183 bậc thang xoáy trôn ốc bằng thép dẫn đến đỉnh hải đăng cùng hàng chục bậc tam cấp dẫn lên đến đỉnh đèn.Vật liệu xây cất được đưa từ Pháp sang, kể cả ngọn đèn trên đỉnh và máy phát điện. Ngoài ngọn hải đăng còn có một căn nhà lớn hình vuông mỗi cạnh 40m, dưới nhà là một hầm chứa nước sâu 3m, trước nhà có một giếng gọi là giếng Tiên.

Dưới chân tháp có một con đường bê tông chạy thẳng xuống chân đồi. Hai bên đường có hai hàng cây đại cổ thụ quanh năm tỏa bóng mát do chính người Pháp trồng từ ngày khởi công xây dựng hải đăng Kê Gà.Với quy mô này, Hải đăng Khe Gà hiện là ngọn hải đăng cao và cổ xưa nhất Việt Nam nói riêng và vùng Đông Nam Á nói chung. Ngày nay, đảo Kê Gà và ngọn hải đăng đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách khi đến thăm tỉnh Bình Thuận. Nếu vào những ngày đẹp trời, từ ngoài khơi xa, cách khoảng 10 km, các tàu thuyền qua lại vẫn có thể nhìn thấy ngọn hải đăng cổ có kiến trúc độc đáo này. Một chuyến du lịch cuối tuần cùng gia đình và người thân tại biển Thuận Quý, huyện Hàm Thuận Nam không những giúp du khách thư giãn, phục hồi sức khỏe bên những bãi biển êm đềm cát trắng mà còn là dịp để khám phá vẻ đẹp trường tồn hơn 100 năm qua của ngọn hải đăng Kê Gà.

Không sầm uất, nhộn nhịp nhưng Mũi Kê Gà lại cuốn hút du khách bởi vẻ đẹp bình dị và hoang sơ.

  • Chùa Linh Sơn

Tổ Đình Linh Sơn cổ tự tọa lạc giữa lưng chừng núi Linh Sơn Vĩnh Hảo, do Tổ Hải Bình Bảo Tạng khai sơn vào khoảng năm 1938 – 1939. Khởi nguyên của ngôi Chùa là một hang đá bên dòng suối, xưa kia Tổ Bảo Tạng từ Trà Can vào để ẩn thân tu thiền, do cảm ân đức của Tổ nên dân làng dựng lên ngôi Chùa bằng tranh để thờ phụng Tam bảo và làm nơi hành đạo cho Tổ Bảo Tạng. Dân làng thỉnh Tổ khai sơn trụ trì và được Tổ đặt hiệu Chùa là Linh Sơn Tự. Tổ Bảo Tạng trụ xứ nơi đây một thời gian, Ngài đã dùng định lực để nhiếp độ quần sinh trong ấy có cả loại cọp beo qui phục. Con người và cầm thú sống quanh quẩn bên nhau mà chẳng có một ác Niệm nào. Bên cạnh Chùa có ngôn suối Hàm Rồng đến mùa mưa nước lớn, nước trên cao trong đá Hàm Rồng phun ra tọa thành một luồng nước mạnh, mới nhìn chúng ta thấy như rồng đang phun nước. Phía dưới suối Hàm Rồng là hang Tổ. Trong hang tôn trí bảo tượng Tổ Bảo Tạng và long vị của Ngài. Hang Tổ nằm bên bờ suối. Đá chồng chất lên nhau làm cho cảnh quan thêm hùng tráng. Bên cạnh hang có xây một bảo tháp và bia đá tám thán công đức của Tổ Bảo Tạng. (Bảo tháp này do Đại Đức Nguyên Thận và Phật Tử xây dựng vào năm 1995).

Đời Hòa Thượng Thiện Minh trụ trì Ngài đúc một Đại Hồng Chung. Tượng Tổ Bảo Tạng, tượng Phật và Bồ Tát bằng đồng hiện nay vẫn cò bảo quản ở tại Chùa. Sau đó Hòa Thượng Thiện Minh về trụ trì Chùa Cổ Thạch, Ngài giao lại cho Đại Sư Thiện Hạnh trông coi, Sư Thiện Hạnh húy Thị Thông cùng với các cư sĩ Nguyễn Lăng, Nguyễn Ôn, Phan Để, Phạm Hành suốt đời hy sinh để bảo vệ ngôi Chùa lịch sử này. Đặc biệt cụ Phạm Hành trong khi cuốc đất trồng chuối đã đào tạo một chiếc ấn bằng đồng đen trong thời Quang Trung Nguyễn Huệ, đây cũng là một bảo vật của Chùa.

Năm 1948 kháng chiến bùng nổ, nhân dân đã chọn ngôi Chùa này làm nơi che chở cách mạng, từ đó phong trào chống Pháp được dấy lên mạnh mẽ, bao nhiêu tình cảm đói no, sướng khổ của nhân dân trong thời kháng chiến đều được che chở dưới mái Chùa Tổ Linh Sơn qua bài thơ:

41 năm trở lại cảnh này

Điêu tàn xơ xác thật đắng cay

Còn đâuy gốc mít ngày hai bữa

Đỡ dạ no lòng lúc chống Tây

Mái Chùa che chở khi mưa nắng

Nay chỉ thay vào mấy tấm tranh

Căm thù lũ giặc gây tang tóc

Xây dựng nâu thiền ta chung tay.

Trong thời tiêu thổ kháng chiến Linh Sơn cổ tự bị triệt hạ toàn bộ. Đến năm 1993 Đại Đức Nguyên Thận được bổ nhiệm trụ trì, Thầy đã vận động Phật Tử trùng tu lại toàn bộ ngôi Chùa trên nền cũ, Chùa được xây dựng lại cổng Tam Quan và đặc biệt tạo thêm những cảnh quan theo tín ngưỡng dân gian, như Tề Thiên Đại Thánh, Dinh Ngũ Hành, miếu Sơn Thần…Trước chánh điện xây chiếc thuyền Bát Nhã, trên tôn trí tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, giữa cảnh núi rừng thâm u, ẩn hiện trong tàn cây hóc đá những điện thờ nghi ngút khói hương khi Phật Tử đến chiêm bái tưởng chừng như mình lạc trong cảnh Tây Phương Tịnh Độ.

Điện Phật cũng như những ngôi Chùa trong Tỉnh, chính giữa thờ Đức Bổn Sư, phía tả thờ Bồ Tát Quán Thế Âm, phía hữu thờ Quan Thánh, hậu Tổ thờ tượng Tổ Đạt Ma, tượng Tổ Bảo Tạng và long vị các Hòa Thượng.

+ Khai sơn Lâm Tế đời 40 húy Hải Bình Bảo Tạng Hòa Thượng.

+ Kế truyền Lâm Tế đời 41 húy Trừng Quang Thiện Minh Hòa Thượng.

Đặc biệt Chùa còn giữ được một số bảo vật như Ấn Đồng, quả Đại Hồng Chung và nhất là pho tượng Tổ Bảo Tạng bằng đồng rất có giá trị về mặt lịch sử.

  • Cù Lao Câu

Nếu bạn đã về với huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận vùng đất của nắng và gió, hãy một lần ghé thăm để khám phá một vùng đảo hoang sơ được mệnh danh là vương quốc của Đá, đó là Đảo Cù Lao Câu nằm cách bờ biển khoảng chừng 9 km, chúng ta có thể ra Đảo từ nhiều địa điểm khác nhau như từ xã Phước Thể, xã Vĩnh Hảo, xã Bình Thạnh, thị trấn Liên Hương hoặc từ Cà Ná. Thời gian đi tàu trung bình khoảng 45 phút là có thể ra đến Đảo. Cù Lao Câu nằm cách thành phố Phan Thiết khoảng 110km về hướng Đông Bắc, có chiều dài 1.500m, nơi rộng nhất gần 700m, nơi cao nhất hơn 7m, từ đất liền nhìn ra như một chiến hạm lớn giữa biển khơi.

Là một người con của Tuy Phong, tuy đã đến với Đảo nhiều lần nhưng cứ mỗi lần đi là cảm giác háo hức, được về với thiên nhiên cứ làm tôi nôn nao khó tả. Đoàn của tôi lần này có 8 người, tôi có nhiệm vụ hướng dẫn cho các anh chị từ Sài Gòn ra thăm quan. Do chưa có bến, tàu ra đảo chủ yếu là tàu đánh cá của ngư dân. Tàu nổ máy xuất phát lúc 7giờ 30 phút, đi được hơn 20 phút là đến khu vực các ngư dân sử dụng thuyền thúng để lặn, bắt cá, câu cá. Cù Lao Câu ở ngay trước mặt của chúng tôi, hiện ra một lúc rõ hơn. Biển đổi màu, từ xanh dương sang xanh lá cây. Đảo hiện ra gần hơn, biển lại có màu xanh ngọc bích, một màu xanh thật đẹp, thật trong và cũng thật lạ.

Chúng tôi đến với Giếng Tiên để lấy nước ngọt tắm lại cho sạch, cả Đảo chỉ có một cái giếng này để lấy nước ngọt, tuy ít nước nhưng đó là nước nhỉ nên giếng thường xuyên có nước vì vậy ngư dân ở đây gọi là giếng Tiên.

Theo yêu cầu, tôi dắt các anh chị đi tham quan một vòng quanh đảo, mọi người được dịp trầm trồ và chiêm ngưỡng vô vàn những viên đá với đủ hình dạng, hình thù khác nhau. Ai cũng tranh thủ chụp hình để lưu lại những khoảng khắc đẹp với “vương quốc đá”, thiên nhiên đã ưu đãi và ban tặng cho Đảo với nhiều hình dáng đá bạt ngàn, có viên đá mang dáng dấp của hình chú rùa, hình gấu nhìn thật đẹp và lạ mắt, xa xa những lùm cây xanh chen vào, pha sắc xanh của cây vào màu nâu bóng thời gian của đá tạo nên một bức tranh sống động như giữa thiên cung. Do vẫn còn hoang sơ, nên nhiều khu vực trên đảo chưa có tên gọi. Ngoài quần thể đá đủ hình dáng từ chim se sẻ đến rùa, gấu…đảo còn có những hang, khe thiên tạo dáng rất lạ. Theo địa thế của từng khu, nhiều cái tên mới ra đời như hang Tình Yêu, khe Sung Sướng, bãi Tắm Tiên, bãi San Hô, bãi Cá Suốt…

Tôi hướng dẫn các anh chị đến thăm hang yến, một hang có hàng trăm con chim yến xây tổ, dân đi biển vào mùa hè thường ghé lại lấy trứng, lấy tổ yến nhưng gần đây có sự bảo vệ của bộ đội đóng trên đảo nên người đi biển không khai thác tổ yến nữa, vì vậy mà yến sinh sôi ngày càng nhiều. Tiếp theo là bãi cá suốt, ở bãi này đặt biệt chỉ có và có rất nhiều cá suốt, một loại cá được ngư dân biển dùng làm gỏi rất ngon, chỉ cần ngồi thả câu khoảng 1 giờ là có thể có ½ kg cá suốt để làm gỏi.

Chúng tôi nghỉ trưa trên những chiếc võng đong đưa, đón những ngọn gió biển mát rượi, 14 giờ chúng tôi lại bắt đầu hành trình, để giới thiệu những điều thú vị trên Đảo tôi dắt mọi người đến đền thờ thần Nam Hải (cá voi), vị thần này theo tín ngưỡng của ngư dân rất linh thiêng và có nhiều lần cứu nguy cho ngư dân trên biển bị nạn. Đến nay không ai biết ngôi đền do ai xây dựng và dựng vào thời nào nhưng phong tục tập quán và sự tín ngưỡng vị thần trong ngôi đền vẫn được giữ gìn, lưu truyền và thờ phụng một cách rất trang nghiêm từ xưa đến nay. Lễ cúng lớn nhất ở Đền thờ thần Nam Hải trên Cù lao Câu là vào dịp rằm và 16 tháng Tư âm lịch hàng năm và tổ chức hát chèo bả trạo để tế Ngài. Tôi thuyết minh lại những hiểu biết và nhìn thấy của mình ở các chuyến đi trước để các anh chị được biết, vì chúng tôi đi không đúng dịp rằm tháng tư, để được thưởng thức xem việc thờ cúng và hát chèo bả trạo để tế Ngài tại đền thờ này. Xung quanh ngôi đền là hàng chục bộ hài cốt xương cá voi khi bị thương hoặc chết, xác trôi dạt vào đảo được người dân ở đây chôn cất xung quanh phía sau ngôi đền, thờ cúng rất trang nghiêm.

Cuối cùng, chúng tôi đến với bãi tắm Tiên, một bãi tắm nhỏ nằm giữa 2 vách đá dựng đứng, một bãi cát trắng mịn màng, làn nước trong xanh có thể nhìn tận đáy biển, nơi có các rặng san hô và từng đàn cá nhỏ tung tăng bơi lội…Bãi này được gọi là bãi tắm Tiên vì nó nhỏ và nằm kín đáo giữa 2 vách đá, rất thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng của những gia đình nhỏ hoặc những đôi uyên ương đang yêu nhau. Vì không chuẩn bị ở lại đêm trên Đảo nên 16 giờ chúng tôi về lại đất liền,                             

 Nếu bạn muốn đến tham quan, khám phá Đảo Cù Lao Câu tôi mách nhỏ với các bạn nên đi vào những dịp ngày rằm trăng sáng khung cảnh rất đẹp, vì Đảo vẫn còn nguyên dáng vẻ hoang sơ với thảm thực vật phong phú, đa dạng, khí hậu trong lành, mát mẻ. Nhìn qua làn nước, những viên đá cuội, sỏi, vỏ ốc luôn ẩn hiện đầy bí ẩn. Tự nhiên tâm hồn mình thấy thảnh thơi, thư thái, quên đi những buồn vui, stress, căng thẳng… trong cuộc sống hàng ngày.

Hoang sơ, đầy bí ẩn, thu hút và rất thú vị là ấn tượng mà các anh chị từ Sài Gòn sau khi kết thúc chuyến tham quan đã nhận xét như thế. Đảo là nơi thích hợp cho những người thích khám phá vẻ đẹp hoang sơ của biển, yêu cảm giác mạo hiểm, hứng thú với các hoạt động như tắm biển, đánh cá, câu mực, ngắm san hô…Hiện nay Cù Lao Câu được quy hoạch làm khu bảo tồn sinh vật biển, trong tương lai Đảo Cù Lao Câu huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận sẽ hứa hẹn nhiều triển vọng về du lịch sinh thái.

  • Chùa Bửu Sơn

Cách thành phố Phan Thiết 6km về phía Đông Bắc, Chùa Bửu Sơn nằm trong quần thể di tích Lầu Ông Hoàng bao gồm quần thể núi đồi, rừng, biển, chùa đã tạo nên thắng cảnh nổi tiếng trên đất Bình Thuận.

Chùa Bửu Sơn còn gọi là Chùa Tháp, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 và được Vua Gia Long ban “Ngự Tứ Bửu Sơn Tự”. Chùa nằm trên đồi thuộc phường Phú Hài, mặt hướng về cửa biển Phú Hài quanh năm lộng gió. Đường trước Chùa từ cao nhìn xuống ta có thể thấy được toàn cảnh thành phố Phan Thiết. Phía sau Chùa là Tháp Chăm Pô Sah Inư màu gạch đỏ tươi tạo thành một quần thể Tháp rất đẹp.

Năm 1950, Chùa bị phá hủy hoàn toàn vì chiến tranh. Đến năm 1954 hai Phật Tử Phạm Khắc Minh và Nguyễn Thanh Vân xây dựng lại như hôm nay. Năm 1961 Bổn đạo và ông Lâm Vĩnh Bá trùng tu lại Chùa. Trước Chùa có ba tượng phật gồm Phật Thích ca ở giữa và hai tượng phật Bồ Tát Quán Thế Âm, tất cả đều lộ thiên, mặt quay về hướng biển như sẵn lòng phù hộ cho ngư dân quanh vùng Phú Hài. Chánh điện Chùa tuy không đồ sộ nhưng rất trang nghiêm, điện phật thờ Đức Phật Thích Ca và một số tượng. Phía sau chánh điện là nhà thờ Tổ và Tiên Linh.

Cùng với Nhóm đền Tháp Chăm và Lầu Ông Hoàng, Chùa Bửu Sơn đã tạo thành một địa điểm tham quan lý thú cho du khách gần xa.

  • Vạn Thủy Tú

Vạn Thủy Tú ngày nay tọa lạc trên đường Ngư Ông, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết. Vạn Thủy Tú được xem là vạn của các vạn, thủy tổ của nghề biển ở Phan Thiết và Bình Thuận. Được xây dựng từ những năm trước và đến năm Nhâm Ngọ 1762 mới hoàn thành để thờ thần Nam Hải (tức cá Voi). Ngư dân tôn thờ thần Nam Hải bởi họ tin rằng khi trời giông bão, sóng to, gió lớn bao giờ cá Voi cũng giúp ngư dân thoát nạn nơi biển cả.

Đây là ngôi vạn cổ có niên đại sớm nhất và có diện tích tổng thể lớn nhất ở Bình Thuận, được Nhà nước xếp hạng Quốc gia năm 1996. Vạn Thủy Tú sử dụng lối kiến trúc dân gian, toàn bộ các vì kèo, rường cột và hệ thống kết cấu gỗ ở đây đều được chọn các loại gỗ quý. Từ những cây cột lớn đến các cây kèo, trính, đòn tay, các chi tiết được lắp ghép trong ngôi vạn đều được trau chuốt, chạm khắc tỉ mỉ.

Đến nay, so với hàng chục ngôi vạn thờ Hải Thần dọc bờ biển Bình Thuận thì ngôi vạn này có kiến trúc cổ còn giữ nguyên trạng. Vạn còn chứa nhiều hiện vật quý hiếm cũng như các tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu cho nghệ thuật chạm gỗ, đúc đồng, nặn tượng do bàn tay khéo léo của các nghệ nhân thế kỷ XVIII tạo nên. Có thể kể đến các hiện vật như: chuông đồng, tượng đất nung, khám thờ, hương án, bao lam, thành vọng, hoành phi, liễn đối… có từ những thế kỷ trước, hàm chứa nhiều nội dung thông tin cần thiết cho nhiều ngành khoa học. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa Hán – Nôm quý giá tiêu biểu là 24 sắc phong của các đời vua Triều Nguyễn ban tặng. Trong đó có một bộ xương cá Voi xám, vừa được phục chế với sự giúp đỡ của Viện Hải dương học Nha Trang vào giữa năm 2003, có chiều dài 22 m, ước tính khi cá còn sống có trọng lượng khoảng 65 tấn. Cho đến nay, bộ xương này có niên đại sớm nhất, lớn nhất và duy nhất (do con người lưu giữ và bảo quản chứ không phải do khai quật khảo cổ học) và được đánh giá là lớn nhất Đông Nam Á.

Ngoài ra trong vạn còn lưu giữ hơn 100 bộ xương cốt cá voi và các loài cá lạ khác, không ít các bộ xương của những con rùa da khổng lồ. Du khách có thể đến đây để tham quan, nghiên cứu và tìm hiểu về ngôi Vạn cổ có niên đại sớm nhất và bộ xương cá voi lớn nhất Đông Nam Á này.

  • Chùa Ông

Chùa Ông là ngôi chùa cổ nhất và có quy mô lớn nhất của người Hoa ở Bình Thuận, tọa lạc tại phường Đức Nghĩa – TP. Phan Thiết. Theo tài liệu trong thần phả của chùa và niên đại khắc ghi bằng dòng chữ Hán trên thanh xà cồ nóc chính diện “Thiên kiến Canh Dần niên trọng đông kiết tạo” (chùa được thiết lập vào tháng 11 năm Canh Dần 1770).

Tổng thể kiến trúc ở đây từ ngày khởi tạo là một ngôi miếu lớn của người Hoa xây dựng để thờ Quan Công (Quan Thánh đế quân). Sách Đại Nam Nhất Thống Chí tập 12 gọi là “Đền Quan Công” đúng với tên lúc bấy giờ của miếu. Ngay trước cổng vào chùa hiện nay còn tấm biển ghi “Quan Thánh miếu”. Hơn nữa nội dung thờ phụng bên trong chỉ thờ tượng Quan Thánh đế quân, cùng những tượng khác chứ không thờ Phật và không có các nhà sư trụ trì. Thế nhưng trong dân gian từ xưa đến nay cả người Việt và người Hoa đều quen gọi là “Chùa Ông”.

Nằm trên một diện tích khá lớn, chùa có lối kiến trúc và trang trí nghệ thuật đặc trưng của người Hoa, các dãy nhà nối tiếp nhau tạo nên hình chữ Kim. Hệ thống cột, vĩ kèo chạm khắc rất công phu, sắc nét trông rất giống kỹ thuật chạm khắc trong các ngôi đình của người Việt. Tất cả những cột chính đều có treo câu đối chạm khắc và sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Nổi lên ở các gian thờ là những bức tranh chạm gỗ, gắn tường mà nội dung miêu tả các điển tích xưa của người Hoa, có niên đại ở thế kỷ XVIII. Nhiều bức hoành lớn được chuyển từ Trung Hoa qua ở thế kỷ XIX. Gần 100 bức hoành và liên đối với các loại có nhiều kích thước khác nhau treo đầy chính điện và nhà thờ Tiền Hiền. Đặc biệt là những bức hoành phi Đại tự sắc nét với đủ màu sắc, chưa có một di tích nào có số lượng hoành phi nhiều như vậy. Trong đó có một số  đưa từ Trung Hoa sang. Tượng Quan Công to lớn bằng gỗ đặt trang trọng ở gian thờ chính điện cùng hàng chục những pho tượng  cổ khác. Hệ thống bao lam, bao phủ quanh các khám thờ ở Chùa phải nói là những tác phẩm điêu khắc bằng gỗ có giá trị về nghệ thuật, chủ đề chạm khắc phong cảnh thiên nhiên, hoa lá, chim chóc sống động.

Chùa Ông hiện nay còn lưu giữ nhiều chiếc chuông cổ có giá trị về lịch sử và nghệ thuật, đúc tại Quảng Đông, Trung Hoa và chuyển sang từ triều đại Nhà Thanh. Kiểu cách đúc và vật liệu giống Đại hồng chung của người Việt nhưng trang trí phức tạp hơn và rườm rà hơn trên thân chuông. Chùa Ông là một trong những ngôi chùa có vườn chùa đẹp.

Về lễ hội, trước năm 1975 ở Phan Thiết có lễ hội dân gian lớn nhất là lễ hội “Nghinh Ông” ở Chùa Ông. Năm 1996 lễ hội này được tổ chức lại 2 năm một lần, đã thu hút hàng chục ngàn người từ khắp nơi. Và hiện nay được tỉnh Bình Thuận chọn là một trong những lễ hội truyền thống phục vụ phát triển du lịch.

Từ bao đời nay, Chùa Ông là nơi mà ngày Tết cổ truyền của dân tộc, nhân dân lại tụ tập ở đây để cầu cho một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, làm ăn may mắn của mọi người, mọi nhà.

  • Nhóm đền tháp Chăm Pôđam

Nhóm đền tháp Chăm PôÐam (PôTằm) tọa lạc dưới chân núi có tên là núi Ông Xiêm thuộc địa phận xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận nằm về hướng Tây Bắc, cách thành phố Phan Thiết khoảng 110 km. Tương tự như nhóm tháp Pôshanư cả về kỹ thuật xây dựng và nghệ thuật kiến trúc, và có niên đại nửa cuối thể kỷ VIII  đầu thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai, một phong cách kiến trúc cổ trong lịch sử kiến trúc của Vương quốc Chămpa.

 Nhóm đền tháp PôÐam bao gồm 6 tháp, hiện nay chỉ còn lại 3 tháp tương đối nguyên vẹn hình dạng, còn 3 tháp khác bị sụp đổ và chỉ còn lại phần đế. Các tháp trong nhóm chia thành hai khu riêng biệt mỗi khu 3 tháp theo hai trục song song. Trong đó nhóm phía Bắc là nhóm có niên đại từ thế kỷ VIII – IX và nhóm Nam có niên đại muộn hơn (thế kỷ XV). Nhóm tháp Bắc còn lưu giữ bệ thờ Linga – Yoni bằng đá xanh tượng trưng cho Thần Siva, với hình dáng và kết cấu giống như ở Pôshanư nhưng nhỏ hơn nhiều. Nhóm tháp Nam gồm 3 tháp khác với nhóm Bắc từ kỹ thuật xây dựng, trang trí nghệ thuật và nội dung thờ phụng (ở đây thờ 7 viên đá tượng trưng cho bia Kút). Theo các nhà nghiên cứu  khoa học ở Bảo tàng Bình Thuận thì nhóm Bắc được xây dựng giữa thế kỷ XV để thờ Vua PôÐam (PôTằm) vị Vua Trị vì Vương quốc Chămpa từ 1433 – 1460. Vị Vua này có tên là Pô KaThít, người Việt gọi là Trà Duyệt. Vị Vua có công giúp dân làm các hệ thống thủy lợi nổi tiếng trong vùng, hiện nay còn phát huy tác dụng ở vùng Tuy Phong, Bắc Bình.

Thông thường các tháp Chăm đều xây cửa chính trổ về hướng Ðông như một nguyên tắc bắt buộc, nhưng 6 tháp trong nhóm PôÐam tất cả các cửa chính đều quay về hướng Nam, trong lòng hẹp hơn, dài hơn. Ðây là trường hợp ngoại lệ đặc biệt không tuân thủ nguyên tắc cũ do có nhiều nguyên nhân về địa lý và tôn giao mà đến nay chưa có sự phân tích, giải nghĩa nào rõ ràng. Ðiều đặc biệt khác là cả 6 tháp trong nhóm PôÐam đều nhỏ và thấp hơn các tháp Chăm khác. Tháp cao nhất khoảng 7 – 8m, mỗi cạnh đáy khoảng 3 – 3,50m.

Kỹ thuật xây dựng và nghệ thuật trang trí tập trung chủ yếu ở tháp Chính (tháp C nhóm Bắc) ở đây tuy thời gian đã làm tàn lụi phần đỉnh nhưng thân tháp còn nguyên vẹn những hình tượng, nghệ thuật trang trí đều và dày đặc trên thân, vòm cuốn, trụ áp tường. Những hình thù kỳ quái, những bông hoa xoắn xít nhau, hình tượng Makara vị Thần canh giữ đền tháp là nét đặc trưng của phong cách Hòa Lai cổ.

Tháp PôÐam là nơi thực hiện nghi lễ, thờ cúng Vua Chăm hàng năm của người Chăm Phú Lạc và các vùng lân cận. Hiện những dòng tộc là hậu duệ của Vua còn lưu giữ 8 sắc phong do các Vua Triều Nguyễn từ Minh Mạng đến Khải Ðịnh phong tặng Vua PôÐam, chúng được cất giữ đặc biệt như báu vật của dòng tộc và trách nhiệm của hậu duệ Vua. Nhóm đền tháp PôÐam đã được Nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1996 .

Nhà hàng tại Bình Thuận 
Nhà hàng Đồi Dương
Địa chỉ: 209 Lê Lợi, Tp. Phan Thiết, Bình Thuận 
Nhà hàng Biển Xanh
Địa chỉ: 54 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Nhà hàng Deja Vu
Địa chỉ: 21 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Điện thoại: 3741 160 Các món Âu, Á, hải sản
Nhà hàng Sóng Biển
Địa chỉ: 162 Lê Lợi, Tp Phan Thiết 
Nhà hàng Suối Cát
Địa chỉ: 383 Trần Quý Cáp – Tiến Lợi, Tp. Phan Thiết 
Nhà hàng Tâm Sài Gòn
Địa chỉ: 2 Lý Tự Trọng, Tp. Phan Thiết 
Nhà hàng Vietnam Home
Địa chỉ: 125A Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Nhà hàng Bình Minh
Địa chỉ: 211 Lê Lợi, Tp. Phan Thiết, Bình Thuận 
Khách sạn tại Bình Thuận 
(Mã vùng:84-62)
Bamboo Village Beach Resort & Spa 
Địa chỉ: 38 Nguyễn Đình Chiểu, Hàm Tiến, Mũi Né, Phan Thiết, Bình Thuận 
Phú Hải Resort 
Địa chỉ: Km 8, Phố Nguyễn Đình Chiểu, Phú Hải, Thành phố Phan Thiết, Tỉnh Bình Thuận 
Khu du lịch Hoàng Ngọc 
Địa chỉ: 152 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Novotel Phan Thiết 
Địa chỉ: 1 Tôn Đức Thắng, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Pandanus 
Địa chỉ: Khu phố 5, Mũi Né, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Romana 
Địa chỉ: Km 8, Phú Hải, Mũi Né, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Sài Gòn – Mũi Né 
Địa chỉ: 56-97 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Điện thoại: 3847 303/ 3847 302 Fax: 3847 307
Khu du lịch Sao Biển 
Địa chỉ: 22 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Điện thoại: 3847 736 Fax: 3847 740
Khu du lịch Terracotta 
Địa chỉ: 28 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Thiên Phú (Seahorse) 
Địa chỉ: 16 Nguyễn Đình Chiểu, Hàm Tiến, Tp. Phan Thiết 
Sea Lion Beach Resort & Spa  
Địa chỉ: 12 Nguyễn Đình Chiểu, Hàm Tiến, Tp. Phan Thiết 
Victoria Phan Thiet Beach Resort & Spa 
Địa chỉ: Km số 9 Phú Hải, Tp. Phan Thiết, Bình Thuận 
Khu du lịch Đồi Dương 
Địa chỉ: 403 Võ Thị Sáu, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Bốn Biển 
Địa chỉ: 30 Nguyễn Đình Chiểu, Hàm Tiến,Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Biển Xanh 
Địa chỉ: 54 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Canary 
Địa chỉ: 60 Huỳnh Thúc Kháng, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Hòa Bình Palmira 
Địa chỉ: 14 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Hải Âu 
Địa chỉ: 32 Huỳnh Thúc Kháng, Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Hoàng Triều (Dynasty) 
Địa chỉ: 140A Nguyễn Đình Chiểu, phường Hàm Tiến,Tp. Phan Thiết 
Khu du lịch Làng Thụy Sĩ 
Địa chỉ: 44 Nguyễn Đình Chiểu, Tp. Phan Thiết 

Bài viết liên quan